Tại sao phải sàng lọc phát hiện sớm bệnh đái tháo đường?
Tầm soát sàng lọc bệnh đái tháo đường (tiểu đường) nhằm phát hiện sớm những trường hợp bị bệnh tiểu đường nhưng chưa có biểu hiện lâm sàng.

1. Tầm soát sàng lọc đái tháo đường type 1
Bệnh đái tháo đường type 1 có nguồn gốc tự miễn với sự hiện diện của các loại tự kháng thể. Người ta không đặt vấn đề khám tầm soát bệnh đái tháo đường type 1 vì sự khởi phát cấp tính của những dấu hiệu, nhiều trường hợp tiểu đường type 1 được chẩn đoán rất sớm sau khi những dấu hiệu tiến triển.
Các xét nghiệm sàng lọc để phát hiện các trường hợp có kháng thể mà không có triệu chứng không được khuyến cáo vì:
- Giá trị ngưỡng để chẩn đoán của các thử nghiệm marker miễn dịch chưa thực sự thống nhất;
- Chưa đạt được đồng thuận nên hành động thế nào nếu kết quả cho thấy tự kháng thể dương tính;
- Tỷ lệ đái tháo đường type 1 rất thấp nên nếu có sàng lọc, số lượng những người có thể phát hiện được rất nhỏ, dưới 0,5%, hiệu quả về kinh tế không cao.
Bài đọc liên quan:
https://bacsy.webflow.io/bai-viet/kiem-tra-suc-khoe-tong-quat-dinh-ky-nhu-the-nao-cho-dung-va-du
2. Sàng lọc phát hiện sớm tiểu đường type 2
Ngược lại, tiểu đường type 2 rất thường gặp (chiếm 90 đến 95% người bệnh bị tiểu đường) và thực tế có hơn ⅓ bệnh nhân bị tiểu đường type 2 đã không được chẩn đoán. Tiểu đường type 2 diễn tiến âm ỉ và nhiều khi người bệnh mới được chẩn đoán mà đã có biến chứng của bệnh, thậm chí có những người bệnh trong lần chẩn đoán đầu tiên đã mắc phải những biến chứng nặng nề của bệnh tiểu đường.
Tăng đường huyết mạn tính ở người bị bệnh đái tháo đường thường dẫn tới các tổn thương muộn, những rối loạn chức năng hoặc suy các cơ quan, đặc biệt là những biến chứng mắt, thận, thần kinh, tim và các mạch máu. Bệnh nhân mắc đái tháo đường type 2 nhưng không được chẩn đoán có nguy cơ mắc bệnh tim-động mạch vành, đột quỵ và bệnh mạch máu ngoại biên cao hơn hẳn những người không mắc bệnh đái tháo đường. Họ cũng sẽ dễ bị rối loạn mỡ máu, huyết áp cao và thừa cân béo phì, những yếu tố nguy cơ cho bệnh mạch vành.
Chính vì thế, việc phát hiện sớm bệnh đái tháo đường type 2 giúp làm giảm gánh nặng điều trị, giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh và ngăn chặn một cách hiệu quả những biến chứng mãn tính nặng nề của tiểu đường.
Xem thêm:
https://suckhoedoisong.vn/phong-kham-careplus-ra-mat-chi-nhanh-quan-1-n185092.html
Những khuyến cáo về việc tầm soát bệnh tiểu đường type 2:
Tất cả đối tượng trên 45 tuổi, nhất là những người thừa cân hay béo phì (có BMI > 25 kg/m2), cần được xét nghiệm tầm soát. Nếu kết quả thử đường huyết ở mức bình thường nên thử lại đường huyết 3 năm một lần.
Các đối tượng có các yếu tố nguy cơ sau đây phải được thử đường huyết để tầm soát ở tuổi trẻ hơn:
- Người lười vận động
- Có cha hay mẹ đẻ bị đái tháo đường
- Người thuộc chủng tộc có nguy cơ cao (Mỹ da đen, Mỹ bản địa, Mỹ gốc Châu Á, người Châu Á Thái Bình Dương)
- Sinh con nặng ký, cân nặng khi chào đời của đứa trẻ lớn hơn 4 kg hoặc đã được chẩn đoán là tiểu đường thai kỳ
- Bị cao huyết áp (huyết áp cao hơn hoặc bằng 140/90 mmHg)
- Có HDL-C ≤ 35mg/dl (0.9mmol/l) hoặc nồng độ triglyceride ≥ 250mg/dl (2.82mmol/l)
- Phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang
- Đã được chẩn đoán là rối loạn dung nạp glucose hoặc rối loạn đường huyết khi đói
- Có tình trạng bệnh lý kết hợp với đề kháng insulin (như chứng gai đen, buồng trứng đa nang)
- Có tiền sử bị các căn bệnh về mạch máu
Có thể kết hợp cả test đường huyết khi đói và nghiệm pháp tăng đường huyết trong sàng lọc phát hiện sớm tiểu đường, tuy nhiên, thử đường huyết khi đói phổ biến hơn vì kinh tế, tiện lợi và dễ dàng thực hiện.
Thông tin thêm:
https://www.patreon.com/careplus
3. Sàng lọc phát hiện sớm tiểu đường type 2 ở trẻ nhỏ
Tỷ lệ trẻ em bị bệnh tiểu đường type 2 vài năm gần đây gia tăng rất cao, nhất là những bé bị béo phì và trẻ em thuộc các chủng tộc có nguy cơ cao.
Tất cả trẻ thừa cân và có từ hai trong số các nguy cơ sau đây cần phải xét nghiệm sàng lọc đái tháo đường type 2:
- Có cha mẹ hoặc ông bà mắc bệnh tiểu đường
- Thuộc chủng tộc có nguy cơ cao
- Có dấu hiệu kháng insulin hoặc tình trạng bệnh kết hợp với kháng insulin (chứng gai đen, cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid, buồng trứng đa mang)
- Mẹ có tiền sử đái tháo đường thai kỳ

Tầm soát lần đầu vào khoảng 10 tuổi, kiểm tra lại vào tuổi dậy thì nếu dậy thì sớm. Nếu kết quả bình thường thử lại định kỳ 2 năm/lần.
XEM THÊM NỘI DUNG KHÁC:
https://careplusvn.com/vi/tim-hieu-tam-soat-tieu-duong-va-bien-chung-tieu-duong